2024 Tác giả: Jasmine Walkman | [email protected]. Sửa đổi lần cuối: 2023-12-16 08:39
Các nước phương Tây mới bắt đầu thưởng thức hương vị và giá trị dinh dưỡng của rau biển, vốn là một thực phẩm chủ yếu trong chế độ ăn uống của người Nhật trong nhiều thế kỷ. Nhiều loại rau biển có thể được tìm thấy trong các cửa hàng đặc sản quanh năm, nhiều loại trong số chúng ở các siêu thị thông thường.
Mô tả và lịch sử của tảo
Rau biển, thường được gọi đơn giản là rong biển, là những món đồ trang sức tuyệt đẹp mà Sao Hải Vương tặng cho chúng ta, mang lại sự sống cho vùng biển xanh và cung cấp cho chúng ta những thực phẩm cải thiện chế độ ăn uống của chúng ta cả về mặt ẩm thực và dinh dưỡng.
Việc tiêu thụ rau biển có lịch sử lâu đời. Bằng chứng khảo cổ học cho thấy các nền văn hóa Nhật Bản đã tiêu thụ rong biển hơn 10.000 năm trước. Trên thực tế, hầu hết các quốc gia gần nước, bao gồm Scotland, Ireland, Na Uy, Iceland, New Zealand và bờ biển Nam Mỹ, đã tiêu thụ tảo từ thời cổ đại.
Ngày nay, Nhật Bản là nước sản xuất rau biển lớn nhất. Có lẽ đây là lý do tại sao hầu hết các loại tảo thường được gọi bằng tên tiếng Nhật của chúng.
Rau biển mọc cả ở vùng nước mặn biển và các ao hồ, biển nước ngọt. Chúng thường mọc trên các rạn san hô hoặc các tảng đá, những nơi rất sâu dưới nước, qua đó tia nắng mặt trời có thể xuyên qua, vì chúng cũng giống như các loài thực vật khác, cần ánh sáng để tồn tại. Rau biển thực chất không phải là rau hay thực vật, mà được xếp vào một nhóm gọi là "tảo".
Thành phần của tảo
Tảo chứa tới 40% là đạm thực vật, có giá trị sinh học rất cao, nghĩa là đã hội tụ gần như đầy đủ các axit amin. Chúng cũng chứa một lượng lớn provitamin A, quan trọng đối với sức khỏe làn da. Ngoài ra, chúng có đủ lượng vitamin C, B, D, F và K. Tảo là một trong số ít nguồn cung cấp vitamin B12; không mang lại cho mầm về mặt vitamin E.
Tảo chứa một lượng cực lớn canxi và iốt, cũng như một lượng nhỏ hơn phốt pho, kali, kẽm, sắt và natri. Giống như tất cả các loại thực vật có chứa chất diệp lục, tảo rất giàu magiê.
Rau biển có chứa một chất khó tiêu được gọi là axit alginic.
Các loại tảo
Có hàng ngàn loại rau biển được phân loại theo màu sắc và được gọi là rau biển nâu, đỏ hoặc xanh. Một số nổi tiếng nhất là:
• Nori - có màu từ tím đen đến xanh đậm, được dùng chủ yếu cho sushi. Chúng cũng được sử dụng để làm cơm nắm, làm đồ trang trí cho ngũ cốc, mì spaghetti, súp và salad;
• Tảo bẹ - có màu từ nâu nhạt đến xanh đậm. Loại tảo này được coi là tổ tiên của tất cả các loại rau mà chúng ta biết ngày nay. Nó hoạt động như một máy lọc không chỉ của đại dương mà còn của cơ thể con người;
• Hijiki - giống như những miếng bột nhão nhỏ màu đen. Chúng chứa một lượng canxi rất cao, làm giảm lượng đường trong máu. Hương vị của chúng hơi sắc nét, nhưng được điều chỉnh bằng cách thêm hành tây và các loại rau ăn củ khác nhau;
• Kombu- có màu rất sẫm và được dùng chủ yếu để làm gia vị cho súp. Chúng là một nguồn giàu axit glutamic. Một bổ sung lý tưởng cho chế độ ăn kiêng giảm cân. Nếu được thêm vào đậu, chúng sẽ tăng tốc độ chuẩn bị và mang lại hương vị tuyệt vời. Chúng có thể được phục vụ với nhiều loại rau và tất nhiên là với cơm;
• Wakame- tương tự như Kombu, được sử dụng cho súp Nhật Bản. Chúng rất giàu canxi, vitamin B và C. Chúng là một bổ sung tốt cho nhiều loại rau và gạo;
• Arame - so với những loài khác, loài này có vị ngọt và dịu hơn nhiều. Ngoài ra, chúng có một cấu trúc tinh tế. Chúng kết hợp tốt với rau, là một bổ sung tốt cho món salad, cơm, súp và tất cả các loại cháo. Chúng đặc biệt giàu canxi và iốt.
Lựa chọn và bảo quản tảo
- Mua rau biển trong bao bì kín, không còn hơi ẩm.
- Bảo quản chúng ở nhiệt độ phòng, có thể chịu được ít nhất vài tháng.
- Bạn có thể làm sushi cuộn bằng cách gói cơm và các món yêu thích của bạn rong biển trong tờ Nori.
Ẩm thực sử dụng rong biển
Tiêu thụ về rong biển đang thịnh hành nhất trong gian bếp của các nước Châu Á. Chúng được dùng làm súp và salad, cũng như món sushi nổi tiếng thế giới. Chúng có thể được phục vụ một mình hoặc kết hợp với rau, cá hoặc cơm. Tảo xuất hiện mạnh mẽ trong ẩm thực chay, nơi chúng được thêm vào như một thành phần chính trong các món ăn.
Lợi ích của tảo
- Họ chăm sóc sức khỏe của chúng ta một cách tối ưu. Tại sao mọi người lại muốn ăn rau biển? Bởi vì chúng cung cấp nhiều loại khoáng chất nhất, chứa hoàn toàn tất cả các loại khoáng chất có thể tìm thấy trong đại dương - chính những loại khoáng chất có thể tìm thấy trong máu của chúng ta. Rau biển là nguồn cung cấp i-ốt và [vitamin K đặc biệt, một nguồn cung cấp folate và magiê rất tốt cho vitamin B và một nguồn cung cấp vitamin B dồi dào. Ngoài ra, chúng còn chứa một lượng lớn lignans - thành phần thực vật có đặc tính chống ung thư.
- Đảm bảo hoạt động lành mạnh của hormone tuyến giáp. Rau biển, đặc biệt là nâu biển rong biển, là nguồn i-ốt tự nhiên phong phú nhất, là thành phần của hormone tuyến giáp thyroxine (T4) và triiodothyronine (T3) cần thiết cho sự sống của con người. Bởi vì các hormone tuyến giáp này điều chỉnh sự trao đổi chất trong mọi tế bào của cơ thể và thực sự tham gia vào tất cả các chức năng sinh lý, thiếu iốt có thể có tác động tàn phá sức khỏe của chúng ta.
- Chúng bảo vệ chúng ta khỏi các dị tật bẩm sinh và bệnh tim mạch. Axit folic, tập trung nhiều trong rau biển, đóng một số vai trò bảo vệ quan trọng khác. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng điều cần thiết là phải có đủ lượng axit folic trong chế độ ăn uống của chúng ta, vì điều này bảo vệ chúng ta khỏi một số dị tật bẩm sinh, bao gồm tật nứt đốt sống (một bệnh về cột sống).
Hàng hải rong biển chúng cung cấp cho chúng ta sự bảo vệ kép chống lại bệnh tim. Ngoài axit folic, chúng là một nguồn cung cấp magiê dồi dào, giúp giảm huyết áp cao và bảo vệ chúng ta khỏi cơn đau tim.
- Chúng có tác dụng chống viêm. Một số loại rau biển đã được chứng minh là một nguồn độc đáo của các chất giống như carbohydrate được gọi là fucans, có thể làm giảm nguy cơ viêm.
- Làm giảm các triệu chứng của thời kỳ mãn kinh. Rau biển cung cấp cho chúng ta magiê, có khả năng phục hồi các triệu chứng mất ngủ trong thời kỳ mãn kinh.
Tác hại từ tảo
Tuy nhiên, phải cẩn thận với rong biển, vì do ô nhiễm nước với kim loại nặng, chúng bắt đầu hoạt động giống như một miếng bọt biển, hấp thụ tất cả các yếu tố có hại, bao gồm cả asen. Chúng tôi khuyên bạn nên tránh tiêu thụ hijiki trừ khi nó được trồng theo phương pháp hữu cơ, vì nó có hàm lượng asen cao nhất.
Đề xuất:
Ăn Rong Biển Mỗi Ngày để Có Sức Khỏe
Để khỏe mạnh, chúng ta cần ăn tảo hàng ngày, một nhóm các nhà khoa học Đan Mạch rất kiên quyết. Siêu thực phẩm hải sản là một thực phẩm bổ sung lành mạnh ngăn ngừa béo phì và tất cả các vấn đề và bệnh tật mà nó mang lại. Ngoài ra, chúng còn làm giảm nguy cơ phát triển bệnh tim mạch.
Thực Phẩm Rong Biển Dành Cho Người Sành ăn đã Chiếm Lĩnh Tây Ban Nha
Những người Tây Ban Nha trẻ tuổi đầy táo bạo đã tìm thấy sự cứu rỗi khỏi cuộc khủng hoảng trong các món ăn dành cho người sành ăn từ loại rong biển đặc biệt. Alberto và Sergio, những người tốt nghiệp ngành sinh học và khoa học biển, thường xuyên lặn xuống biển Galicia để tìm kiếm chuyến đánh bắt tiếp theo.
Bánh Mì Rong Biển Và Bia Sẽ Chống Lại Nạn đói Trên Thế Giới
Một nhóm các nhà nghiên cứu từ Viện Nghiên cứu Hóa sinh Na Uy đang cố gắng tìm ra những cách hiệu quả để sử dụng tảo trong ngành công nghiệp thực phẩm hiện đại. Các nhà khoa học đã hợp tác với các nhà sản xuất bia và làm bánh để khởi động một số dự án thử nghiệm trong đó tảo giàu protein và vitamin sẽ được sử dụng để làm thức ăn và đồ uống.
Rong Biển Và Những Lợi ích Sức Khỏe đáng Chú ý Của Chúng
Tươi từ biển hoặc đại dương, với một số lợi ích sức khoẻ, rong biển là một món ngon , tiếc là hiếm khi có mặt trên bàn của chúng tôi, nhưng thực tế xứng đáng có một vị trí thích hợp trong thực đơn của chúng tôi. Dưới đây là một số lý do tại sao bạn nên bắt đầu bạn ăn nhiều rong biển hơn :
Khả Năng Chữa Bệnh Của Rong Biển St. John Là Trong Công Thức Này Của Deunov
St. John's wort hay còn gọi là Hoa chuông, là một loại thảo dược cổ truyền chữa được nhiều bệnh. Nó còn được gọi là máu của Chúa Kitô vì nó giống với máu vì nước màu đỏ mà thân của nó tiết ra khi cắt và ngâm. Lá, thân và hoa của nó có giá trị, nó được hái sau ngày 24 tháng 6 và được sử dụng cả ở dạng thô và khô.