Cây Ngải Cứu

Mục lục:

Video: Cây Ngải Cứu

Video: Cây Ngải Cứu
Video: Công dụng của cây ngải cứu | Sống khỏe mỗi ngày - 13/6/2019 | THDT 2024, Tháng mười một
Cây Ngải Cứu
Cây Ngải Cứu
Anonim

Điều bình thường cây ngải cứu (Artemisia absinthium L.), còn được gọi là cây ngải trắng, cây ngải đắng và cây ngải đắng là một loại cây thân thảo sống lâu năm và có mùi thơm thuộc họ Cúc (Compositae), chi Ngải..

Cây ngải cứu có mối liên hệ sâu sắc với y học cổ truyền và tín ngưỡng. Người ta tin rằng hương thơm của loại thảo mộc này, được thu hoạch vào lúc trăng tàn, có thể mang lại lợi ích cho ngôi nhà của bất kỳ thế lực ô uế nào. Nó được áp dụng với liều lượng nhỏ, và ngôi nhà được hút với nó trong một thời gian ngắn. Niềm tin gắn liền với nó là nó khôi phục lại sự hài hòa với thiên nhiên, và cách tốt nhất để sử dụng cây ngải là treo nó ở nhà.

Các loại gỗ Ngải

Trong chi Cây ngải cứu các loài khá nổi tiếng được nhập về, như cây ngải dại (cây ngải đen Artemisia vulgaris L), cây khoai môn (tarragon) và cây thần (katrinica). Loại thảo mộc này có nhiều lá thơm, và một số loài được dùng làm thuốc, một số loài khác được dùng làm gia vị, và những loài khác vẫn là một phần quan trọng của cây trồng trên đồng cỏ. Một đặc điểm thống nhất của tất cả các loại ngải cứu là chúng có vị đắng vô cùng.

Ngải trắng có mùi thơm đặc trưng dễ chịu và vị rất đắng. Nó nở hoa từ tháng 7 đến tháng 9, và được tìm thấy ở những nơi có cỏ và đá, trong bụi rậm, vườn cây, dọc theo hàng rào và đường trong cả nước, chủ yếu ở vùng đồng bằng và chân đồi.

Cây ngải cứu trắng là một loại cây thân thảo màu xám bạc, từ xa xưa đã được dùng để chữa rối loạn kinh nguyệt ở phụ nữ, bệnh phong thấp và các bệnh khác. Cây ngải cứu là một trong những loại cây được sử dụng phổ biến nhất trong y học dân gian vùng Balkan, và Hippocrates đã biết những lợi ích của nó.

Từ cây ngải cứu phần ngọn dùng hoa là chủ yếu, cùng với hoa vàng, cắt cách ngọn khoảng 25 cm, thu hái khi bắt đầu ra hoa. Khác với màu trắng, cây ngải đen có cánh hoa màu xanh đậm, trần và phía dưới màu trắng.

Thành phần của cây ngải cứu

Lá và thân cây ngải cứu chứa nhiều chất khác nhau. Thân cây ngải cứu trắng chứa 0,5 - 2% tinh dầu (Oleum Absintjii), có thành phần chính là dẫn xuất oxy của tecpen hai vòng - rượu thujole và xeton thujone, cũng như azulene sesquiterpene chamazulenogen. Cây ngải cứu cũng chứa sesquiterpene lactones, axit hữu cơ, provitamin A, vitamin B6, vitamin C, carotene, axit axetic và isovaleric, axit malic và succinic và những loại khác. Theo các chuyên gia Nhật Bản, capilin là một hoạt chất kháng sinh.

Ứng dụng của cây ngải cứu

Trong nhiều thế kỷ, thậm chí hàng thiên niên kỷ, cây ngải cứu đã được sử dụng cho mục đích y học. Một sự thật thú vị là cây ngải cứu được dùng để chế biến món absinthe vì thành phần thujone có trong nó. Một số loài ngải được ấu trùng của một số loài Lepidoptera dùng làm thức ăn. Cây ngải cứu cũng được sử dụng để xua đuổi bọ chét và bướm đêm, cũng như làm hương vị cho bia và rượu. Rượu vermouth khai vị (từ tiếng Đức Wermut - cây ngải cứu) là một thức uống làm từ rượu vang có hương vị với các loại thảo mộc thơm ngày nay, nhưng ở dạng ban đầu, vermouth được thêm hương vị của cây ngải cứu.

Lợi ích của cây ngải cứu

Một màu trắng cây ngải cứu hoặc Tarnika chỉ dùng theo đơn và có tác dụng bổ huyết, cải thiện tiêu hóa, kháng viêm. Nó được sử dụng cho bệnh viêm dạ dày và các chứng viêm khác của dạ dày, bệnh gan và mật, hôi miệng, thiếu máu, mất ngủ, ký sinh trùng đường ruột, kinh nguyệt không đều, đau ngực, hen phế quản, chàm, vết thương, côn trùng cắn và nhiều hơn nữa.

Gia vị ngải cứu
Gia vị ngải cứu

Cách sử dụng: Chiết xuất 1 muỗng cà phê. thảo mộc trong 200 ml nước trong 2 giờ. Uống 100 ml trước bữa trưa và bữa tối, có thể truyền dịch.

Pha trà ngải cứu chữa bệnh dạ dày

Nghiền 1 muỗng cà phê. ngải cứu, ½ muỗng cà phê rễ cinquefoil, ½ muỗng cà phê. St. John's wort, 1 cm thanh quế và nửa thìa cà phê vỏ cam. Đổ tất cả những thứ này với 1 muỗng cà phê. nước sôi. Đun sôi trong 10 phút và lọc. Uống thành từng ngụm nhỏ sau bữa ăn.

Cây ngải cứu có tác dụng tốt đối với các vấn đề về phế quản và dạ dày, có tác dụng bổ đối với bệnh cúm và cảm lạnh, chống ký sinh trùng, hạ sốt, chống viêm, ảnh hưởng đến tuyến tùng.

Phức hợp các hoạt chất của ngải cứu kích thích sự bài tiết của các tuyến tiêu hóa, túi mật và tuyến tụy và do đó kích thích sự thèm ăn và cải thiện tiêu hóa. Điều này làm cho ngải cứu trở thành một phương thuốc hữu hiệu trong việc chống lại chứng biếng ăn hoặc chán ăn.

Tinh dầu của cây ngải cứu hoạt động như một chất gây tê cục bộ và cũng như một chất kích thích tim, kích thích hệ thống thần kinh trung ương. Nó được sử dụng bên trong để cải thiện lưu thông máu và bên ngoài - bôi ngoài da cho các bệnh viêm khớp, vết bầm tím, đau dây thần kinh, thấp khớp, bàn chân bẹt.

Giun từ cây ngải cứu

Một màu trắng cây ngải cứu nó không nên được sử dụng cho viêm thận vì nó có tác dụng kích thích. Điều đặc biệt quan trọng là không nên dùng ngải cứu cho trẻ nhỏ. Liều lượng lớn của thảo mộc có thể gây độc, và việc uống ngải cứu kéo dài với liều lượng cao hơn đôi khi dẫn đến buồn nôn, nôn mửa, ảo giác và co giật.

Ngay cả những người hoàn toàn khỏe mạnh cũng không nên uống quá 3 tách mỗi ngày, không nên uống trà ngải cứu quá 4 tuần, vì như vậy có thể gây hại cho hệ thần kinh trung ương. Hãy nhớ rằng ngải cứu luôn được áp dụng với liều lượng nhỏ chỉ trong một thời gian ngắn.

Đề xuất: